Trang

Subscribe:

Đấu tranh xây dựng nền tài chỉnh và tiền tệ độc lập

Đấu tranh xây dựng nền tài chỉnh và tiền tệ độc lập

Tài chính

    Chính quyền mới được thành lập, yêu càu chi tiêu của Chính phủ phải có ngay, nhưng nguồn thu vào ngân sách của Chính phù gần như con số không. Ngân khố của chính quyền cũ để lại chỉ có 1,2 triệu đồng Đông Dương.

    Hệ thống thuế cũ phần lớn đã bị bãi bãi bỏ, thuế mới chưa đăt ra ngay được. Việc phát hành tiền giấy còn nằm trong tay Pháp. Sự kiệt quệ vê tài chính cũng là mối đe đọa nghiêm trọng đối với sự sinh tồn của Chính quyền Cách mạng.

Đấu tranh xây dựng nền tài chỉnh và tiền tệ độc lập

    Trong những năm đầu sau cách mạng tháng Tám, Chính quyền cách mạng không thể trông chở vào viện trợ nước ngoài. Các giải pháp vẫn phải là tự lực cánh sinh, phải dựa vào dân. Trước hết, Chính phủ kêu gọi sự đóng góp tự nguyện, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân, thông qua phong trào “Quỹ Độc lập” theo sắc lệnh của Chính phủ ngày 4-9-1945, “Tuần lễ vàng” được tổ chức ngày 16-9-1945 nhằm “thu góp số vàng trong nhân dân và nhất là của các nhà giàu để dùng vào việc cần gấp và quan trọng nhất của chúng ta lúc này là quốc phòng. Kết quả nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài, và một số kiều dân cư trú ở Việt Nam đã tích cực hưởng ứng. Quỹ Độc lập thu được 20 triệu đồng Đông Dương và tuần lễ vàng thu được 370 kg vàng” (bằng số thuế thân và thuế điền thu của cả nước trong 1 năm dưới thởi Pháp thuộc). Những sự kiện lịch sử này phản ánh khát vọng của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam lúc đổ: Độc lập dân tộc quý hơn vàng.

    Ở nhiều nơi, nhân dân còn có các hình thức ủng hộ khác như: cho mượn hoặc hiến nhà cửa cho Chính phủ, trường học, bệnh viện, trạm xá, tặng quần áo, thuốc men, lương thực thực phẩm, nuôi dưỡng bộ đội, cán bộ. Rất nhiều nhà tư sản, điền chủ, trí thức… đã đổng góp hết lòng cho cách mạng. Những hỉnh thức tài chính đặc biệt, dựa vào lòng yêu nước của nhân dân đãmang lại kết quả đáng kể, góp phần giải quyết những khó khăn về tài chính trong những ngày đầu cách mạng.

   Đồng thời với công việc trên, Chính phủ đã khẩn trương xây dựng nền tài chính dựa trên nguồn thu ổn định hơn – đó là thuế. Từ tháng 4-1946, Chính phủ cấm các địa phương không được phép tự động đặt ra những hình thức quyên góp. Những người vi phạm sẽ bị phạt tù từ 6 đến 45 ngày và phạt tiền từ 500 đến 5.000đ, tùy mức nặng nhẹ. Để sớm có hệ thống thuêmới, Chính phù đã dựa trên hệ thống cũ, sửa bỏ ngay những gì coi là bấtcông vô lý, bố sung những loại thu mới cho phù hợp với tính chất của chế độ dân chủ, và tạo điều kiện cho nhân dân an tâm sản xuất.

    Ngày 7-9-1945 Chính phủ đã ban hành sắc lệnh số 11 về việc sửa dồi chính sách thuế. Trong đỏ đã quyết định bãi bỏ ngay thuế thân – một thứ thuế vô lý, trái ngược với tinh thần chính thể cộng hòa. Đình chỉ hằn việc bán thuốc phiện và rượu cồn như một nguồn thu tài chính thởi thuộc địa. Bãi bỏ các thể lộ quá hà khắc và phức tạp về kiểm soát thu mua và tiêu thụ muối của Pháp thởi thuộc địa. Từ nay Nhà nước mua muối của diêm dân với giá hợp lý và dề có muối bán cho dân ở thành phố và các tỉnh miền núi với giá on định.

    Ngày 22-9-1945, miễn giảm thuế môn bài kinh doanh nhỏ dưới 50 đồng, thuế chợ, xe đò, xe tay v.v… Ngày 26-10-1945, Chính phủ ban hành nghị định giảm thuế điền thổ 20%, miễn thuế cho các vùng bị lụt ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ v.v… Đồng thởi, điều chỉnh lại thuế thương mại, công nghệ, thuế xuất nhập khẩu v.v… Đẻ bù vào khoản thiếu hụt của ngân sách, Chính phủ dặt ra nguồn thư mới: “đảm phụ đặc biệt” đánh vào ngành vận tải, bưu điện, “đảm phụ quốc phòng”. Chấn chỉnh các nguồn thu đi dôi với việc thành lập bộ máy quản lý thu. Ngày 10-9-1945, Sở Thuế quan và thuế gián thu, Nha thuế trực thu, Nha thuế trước bạ, công sản và điền thổ v.v… dược thành lập.

    Trong lĩnh vực chi, Chính phủ thực hiện chi theo nguyên tấc tiết kiệm, tập trung cho nhiệm vụ cấp bách trước mắt lúc đỏ là: Diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, nhưng chủ yếu là xây dựng quỹ quốc phòng, xây dựng quân đội, và khôi phục kinh tế giải quyết nạn đói.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: việt nam thời pháp thuộc