Hoàn thành cài cách ruộng đất và bước đầu cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh
Sau khi mới giải phóng, tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về việc tiếp tục tiến hành cải cách ruộng đất ở những nơi chưa làm, chủ yếu là vùng mới giải phóng.
Cải cách ruộng đất ở giai đoạn này được tiến hành trong 3 đợt: đợt 3 (tháng 2 đến 6-1955); đợt 4 (tháng 6 đến 12-1955) và đợt 5 (tháng 12-1955 đến tháng 7-1956). Qua 5 đợt cải cách mộng đất (kể cả 2 đợt tiến hành trong kháng chiến) cho tới tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đã tiến hành ả 3.653 xã, 22 tinh, phần lớn ở vùng đồng bằng và trung du. Kết quả là đã chia 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò, 15 vạn nhà cửa, 2 triệu nông cụ cho khoảng 2,1 triệu họ nông dân với 9,5 triệu người (trong tổng dân số miền Bắc năm 1955 là hơn 13,5 triệu người). Nhờ đó đã làm thay đồi hẳn quan hệ ruộng đất trong nông thôn miền Bắc.
Thắng lợi của cải cách ruộng đất là thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của Đảng và Nhà nước ta. Mơ ước của người nông dân là “người cày có ruộng” đã được thực hiện triệt để, giai cấp địa chủ phong kiến đã bị đánh đổ và xóa bỏ hoàn toàn. Các gia đình nông dân được chia ruộng đất, phấn khởi làm ăn nên năng suất, sản lượng lương thực trong giai đoạn này đã tăng lên rõ rệt.
Tuy nhiên, trong cải cách ruộng đất, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm nghiêm trọng. Hội nghị Trung ương 10 tháng 9 -1956) đã nêu: “Tư tưởng tả khuynh trong cải cách ruộng đất đã chớm nở lúc đầu, nó đã đưa đến chỗ học tập kinh nghiệm nước bạn một cách máy móc và không chịu điều tra, nghiên cứu đầy đủ tình hình xã hội ta… Trong lúc thi hành một mực chống hữu khuynh, trong khi Kiện tượng tả khuynh đã trở nên trầm trọng… Hệ thống cải cách ruộng đất trở nên một hệ thống ở trên cả Đảng và chỉnh quyền”. Cũng trong Hội nghị này, Đảng ta đã đề ra chủ trương sửa sai. Vì vậy, chỉ sau mấy tháng, tình hình xã hội đã ổn định, thắng lợi của cải cách ruộng đất đã được phát huy.
Trong công thương nghiệp, Nhà nước chủ trương sử dụng, hạn chế và bước đầu cải tạo đối với công thương nghiệp tư bản tư doanh. Các hình thức của chủ nghĩa tư bản nhà nước đã được sử dụng như gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý. Ngoài ra, Nhà nước còn sử dụng các chính sách thuế, giá cả để hướng việc kinh doanh của họ phục vụ cho quốc kế dân sinh. Như vậy, thành phần kinh tế tư bản nhà nước đã được áp dụng trong giai đoạn khôi phục kinh tế. Kinh tế tư bản nhà nước mới bắt đầu ở hình thức thấp. Đây là một chủ trương đúng và hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội và đã huy động nguồn lực đa dạng trong dân cư để khôi phục nhanh chóng nền kinh tế.